Trong khi cư xử với người khác, bạn có thể phát hiện ở trong bạn một cảm giác ưu việt hoặc một mặc cảm thua thiệt rất vi tế đối với người kia không? Đó là khi bạn nhìn qua cặp mắt của tự ngã, bản ngã đó thường sống trong sự so sánh của chuyện được/mất, hơn/thua. Nhưng khi nhận ra rằng bạn không phải là những thói quen, những khổ đau ấy, thì nhận thức này sẽ giúp bạn đập vỡ được chiếc vỏ cứng của bản ngã. Dòng suy tưởng miên man được làm chậm lại.
Khối khổ đau đó cũng sẽ khích động những phản ứng có tính chất rập khuôn (60) ở những người thân của bạn, đặc biệt là người bạn gối chăn của bạn, nhằm mục đích là để được nuôi sống bằng những bi kịch và khổ đau xảy ra sau đó. (38) Hiện Hữu: Là sự sống thênh thang đang diễn ra khắp nơi trong vũ trụ trong phút giây này. Đó thường là những mẩu chuyện bất hạnh đã xảy ra trong đời chúng ta, trong đó chúng ta là vai chính, là nạn nhân…
Mà đó chính là sự phát sinh của sự chú tâm một cách cảnh giác, đó là không gian của sự hiện hữu trong đó từng lời nói được tiếp nhận. (75) Cho cái này là tốt, cái kia là xấu: Đây là một thói quen lâu đời ở bên trong của chúng ta đã tạo nên rất nhiều khổ đau và tranh chấp. Qua sự biết ơn một cách vô ngã thế giới của vật thể, đời sống chung quanh bạn sẽ trở nên sinh động trong nhiều khía cạnh mà bạn sẽ không thể hiểu được qua trí năng của mình.
Sự thực là: Bạn không phải là một con người có ý thức về một thân cây, một ý nghĩ, một cảm xúc hay một kinh nghiệm. Đa số chúng ta hoang phí cuộc đời mình trong ngục từ của những suy tưởng không-có-chủ-đích, hay những lo sợ triền miên. Là nhận thức rằng bạn không phải là những khổ đau này, và nhận rõ chân tướng của nó.
Nếu bạn có thói quen tạo ra khổ đau cho chính mình, có lẽ bạn cũng đang tạo ra khổ đau cho những người chung quanh. Hãy để cho nhận thức của bạn đậu lên trên vật thể đó – như một cánh bướm. (44) Sợ hãi: Tương tự như thế, vì nghĩ rằng bạn có một “cái Tôi biệt lập với người khác và thế giới chung quanh” nên bạn đaam ra sợ chết, sợ bệnh tật, sợ đánh mất tiếng tăm, đánh mất tài sản…của mình.
Chúng ta có thể gọi tên chiều tâm thức dó: HIện Hữu, sự có mặt, sự nhận biết, hay thứ Tâm thức khoáng đạt, trong sáng, chưa-bị-trói-buộc (10). (67) Sẽ chẳng bao giờ có ai khác cả, ngoài chính bạn: Trong mỗi quan hệ, những khó khăn, những vấn đề mà ta nhìn thấy ở người kia thực ra là vấn đề của chính bạn. Và bạn không thực sự cần phải làm gì cả.
Đó là lý do người ta thường nhờ các thấy đến tụng kinh, cầu siêu hay nhờ các vị linh mục ban phép giúp cho linh hồn người chết cảm thấy nhẹ nhàng, yên ổn. Cái Chết không phải là đối cực của đời sống. (36) Niềm nở với những gì đang hiện diện: Không có nghĩa là bạn phải yêu thích những hoàn cảnh oái ăm, hay bế tắc,… mà bạn đang gặp phải trong phút giầy này.
Chúng ta cần đến thiên nhiên không những để sống còn mà chúng ta còn cần đến thiên nhiên để giúp ta tìm về nhà, về với nguồn cội, quê hương của mình, thoát ra khỏi ngục tù của chính trí năng tạo ra ở trong mình. Bạn chỉ nhìn thấy hình tướng mà không cảm nhận được sự sống từ trong những hình tướng bên ngoài này - sự bí mật thiêng liêng của đời sống. Bạn có muốn quan sát những thói quen cư xử đó trong bản thân mình và nhận ra được thực chất của cái giọng nói vang vàng, thường hay than vãn về điều này, điều khác…ở trong đầu mình?
Nhờ tập như thế lâu ngày, sự chú tâm ở trong bnạ càng ngày càng mạnh hơn. Hãy nhìn cho rõ những gì bạn đang gây ra cho chính bạn, hay nói đúng hơn là trí năng bạn đang gây ra cho bạn. Cảm nhận về một Cái Tôi - bản ngã ở trong bạn – luôn cần những xung đột, bất đồng…với người này hay người khác, vì cảm nhận về một-con-người-bị-cách-biệt-với-thế-giới-chung-quanh ở trong bạn sẽ được làm mạnh thêm khi bạn phải đấu tranh với cái này, hay cái kia…và trong khi gián tiếp xác minh rằng “dây” mới thực là tôi, còn “bên kia” thì không phải là tôi.
Đôi khi chấp nhận hoàn toàn có nghĩa là thôi không còn cố gắng muốn biết một điều gì nữa, và trở nên thoải mái trong tình trạng rằng bạn không biết hết mọi chuyện. Nhưng phải mất một thời gian khá lâu tôi mới tìm ra được một cụm từ thích đáng – “Sức mạnh của tĩnh lặng”- để dùng làm tựa tiếng Việt cho cuốn sách này. Kinh Vệ Đà (Vedas) và Áo Nghĩa Thư (Upanishads) là hai bộ sách sớm nhất về giáo lý thiêng liêng của Ấn Độ giáo được ghi theo lối kinh văn , tương tự những kinh văn ghi lại lời dạy của Đức Phật sau này.